Đọc đừng sợ nha! ! ! Ở làng Vạn Yên, dòng họ
ông Đào Ngọc Phú là gia
đình duy nhất có nghĩa
trang tư thành hình cách
đây đã ba thế hệ. Người ta
kể rằng lúc ông nội của
ông Phú còn ngồi ghế
quan huyện đã dùng thế
lực để mua lại cơ ngơi của
một gia đình lân cận giáp
ranh phía sau nhà ông rồi
cho san bằng, và lập
nghĩa địa riêng, dặn con
cháu là khi ông xui tay
nhắm mắt thì an táng ấy là
miếng đất có long mạch
tiềm ẩn. Dòng họ Đào Ngọc
sẽ tiếp tục phát thêm được
mấy đời nữa.
Khu nghĩa trang ấy nằm
vào khu đất trũng, có
hàng rào gỗ bao bọc.
Quanh năm âm u vì lũy tre
già rũ xuống che phủ. Lại
thêm cây đa cổ thụ mọc
bên hông, tàn lá ngăn hết
ánh sáng mặt trời, khiến
những ngôi mộ nằm trong
đó trông càng lạnh lẽo.
nhất là những buổi sáng
mờ sương hay những khi
chiều tối.
Nhưng có lẽ thầy địa lý
đoán sai, cho nên hai ba
thế hệ kế tiếp nhau, dòng
họ Đào Ngọc cứ xuống
dần, thoái Quan vi dân về
làm ruộng. Gọi là xuống,
nhưng ruộng đất còn rất
nhiều, so với đại đa số
dân làng thì họ Đào Ngọc
vẫn thuộc hàng ăn trên
ngồi tróc, vinh hoa phú
quý hơn đời.
Chỉ có điều làm ông Phú
không hả dạ là vì trong
thâm sâu, ông mê làm
Quan. ông thích chức
quyền để dược nể sợ,
chứ không muốn chỉ làm
người phú hộ. Tuy giàu mà
thiếu cái oai phong, hách
dịch. ông bỏ thời gian đi
tìm thầy địa lý mãi trên cao
bằng, đón về để coi khu
nghĩa địa sau vườn, và
kể rõ câu chuyện ông nội
làm Quan năm xưa, hy
vọng là có thể nhờ thầy
xoay chuyển lại số mệnh,
tái lập con đường hoàng lộ
lại cho ông và con cháu.
Nhưng thầy coi xong thế
đất rồi bảo:
- Vận số của ông chỉ
được đến thế thôi, như
vậy cũng được đại phúc
lắm rồi. Tương lai hung
khiết chưa biết thế nào,
cần phải thi ân bố đức cho
thật nhiều. Nhân đã dạy là
Tiên tích đức, hậu tầm
long. Xưa Cao Biền thời
Đường bên Tàu sang cai
trị nước ta, xây thành Đại
La, dùng phép phong thủy
để yểm chấn những nơi có
long mạch, hòng làm cho
dân Nam mỗi ngày một suy
yếu, không vùng lên được.
Phép yểm buà của Cao
Biền hiểm hóc lắm, giết
đứa con gái 17 tuổi, moi
hết ruột gan, nhồi cỏ vào
bụng, rồi cho mặc quần áo
màu vàng, giả làm Thần
Linh để đánh lừa Thần Núi
Tản ở nước ta. Phép ấy thì
tôi cũng có thể làm được
để xoay chuyển vận số
cho ông. Nhưng xét ra ác
động và tội âm đức lắm.
Con cháu về sau sẽ phát
cuồng, mà đi ăn xin tha
phương cầu thực.
ông Phú nghe xong, thở
dài não ruột, chia tay ông
thầy địa lý, rồi ông ra
phía trang sau nhà thắp
nhang khắp lượt, con mèo
đen thoăn thoắt chạy theo,
con mèo này ông nuôi từ
khi mới đẻ, lúc nào cũng
gắn bó không rời ông. ông
buồn rầu nhìn gần 20 ngôi
mộ xây cùng kích thước.
Phần lớn lớp xi măng bọc
ngoài đã lên riêu xanh
mốc. Người lạ đến nhà ông
bất chợt ra vườn sau,
nhìn thấy những ngôi mộ
san sát ấy, thường khó
tránh khỏi cái cảm giác rờn
rợn bao phủ. Nhưng với cả
nhà ông thì đã quá quen
mắt từng ngày, nên chẳng
bao giờ bận tâm đến. Thậm
chí có những đêm trăng
mờ, lũ con ông còn dám rủ
nhau ra, chọn một ngôi mộ
bằng phẳng, leo lên ngồi
cầu cơ gọi hồn về để hỏi
chuyện tương lai. Thầy địa
lý đi rồi, bà Phú ngước mắt
nhìn chồng và nhắc lại:
- Thầy nói đúng lắm đó
ông à! Mình được như thế
này là quý lắm rồi. Phúc
đức tại tâm, Thầy bảo phải
thi ân bố đức, thì cứ nghe
lời thầy mà làm. Từ nay,
giúp được ai cái gì thì mình
cứ giúp ; ông đừng có đón
Thầy về nữa, tốn phí mà
chẳng có lợi lộc gì. Theo tôi
thì, cứ ăn ở cho phải đạo
là tốt hơn cả.
ông Phú nhíu mày gắt nhẹ:
- Bà nói chuyện hay nhỉ?
Thi ân bố đức thì lúc nào
mà tôi chả rộng rãi hơn
người? Cái dạo vỡ đê năm
thìn, không có tôi bỏ tiền
cứu lụt ở làng này, thì cả
làng không có đủ đất mà
chôn người chết, bà quên
rồi hay sao? Rồi cái dạo
năm Dậu bị hạn hán, củ
chuối củng không có mà
ăn, dân làng chết như rạ.
Nửa năm trời tôi xuất kho
phát chẩn cứu bao nhiêu
người đều không là thì ân
bố đức hay sao?
Bà Phú dè dặt góp ý:
- Hời... Nói của đáng tội,
tiền của ông nội nhà mình
thì đều là....là...
- Đều là thế nào? Có phải
bà định bảo là tiền của phi
nghĩa, bóc lột của người
nghèo có phải không? Tôi
cấm bà mở miệng nhắc đến
việc ấy. Nghe lời những
quân mất dạy ở ngoài
đường.
Bà Phú nhẫn nhục phân
trần:
- Sao mà cứ động một tí là
ông cứ mắng tôi? Tôi là tôi
vì ông, vì các con, nên mới
bàn góp cho ông vài lời,
chứ tôi có muốn nói ra làm
gì? Tôi chỉ nhắc lại lời
thầy địa lý bảo là mình
phải làm phúc. ông cứu lụt
rồi ông phát chẩn thì tôi
quên làm sao được? Chính
tôi cùng với người làm
gánh từng gánh cơm ra đê
cho người ta ăn mà. Rồi tôi
múc cơm rồi tôi phát vải ra
cho dân nghèo. ông tưởng
tôi không nhớ hay sao?
Nhưng mà ông ạ! Những
việc ấy mình làm là vì lúc
ấy ông định ra tranh cái
ghế nghị viên, cần mua
cảm tình của thiên hạ chứ
không phải là vì lòng tốt
đâu ông? Mình thì mình lừa
người được chứ mình che
mắt Thánh thế nào được?
ông Phú tái mặt quát lớn:
- Bà câm đi! Bà vào nhà
này bưng bát cơm đầy, kẻ
hầu người hạ, ăn trắng
mặc trơn. Không nhớ ơn thì
thôi, lại còn giở giọng bạc
bẻo.
Bà Phú sợ quá vội lủi thủi
bỏ vào nhà. Bà ngẩm nghĩ
lại chuổi ngày dài đăng
đẳng sống với chồng, sinh
cho chồng bốn đứa con:
hai trai, hai gái. Quả thực,
miếng cơm manh áo thì bà
chưa bao giờ phải bận tâm
dù gia cảnh có sa sút đôi
chút so với thời trước.
Nhưng hai vợ chồng có
những khác biệt quá sâu
đậm về tính tình mà luôn
luôn bà phải chịu đựng. Bà
hiền lành bao nhiêu thì
hình như ông Phú là người
mang ác tính bẩm sinh.
Anh bếp Nhỡ ở với gia
đình bà gần 10 năm, một
hôm ăn cắp mấy đấu gạo
mang về cho Mẹ già, bị cô
con gái bắt gặp tri hô lên.
Với bà Phú thì chuyện ấy
nhỏ nhặt quá, chẳng có gì
phải làm lớn. Bà gọi anh lại
và mắng:
- Này, mày dốt vừa vừa
thôi! Mày cần gạo sao
không bảo tao một tiếng?
Lần sau mà giở cái thói ăn
cắp là chết với tao đấy
nhé.
Bà nạt cho có lệ thôi, chứ
bà biết Nhỡ hiền lành. Lấy
trộm gạo là điều bất đắc
dĩ. Nhưng không may cho
Nhỡ là ông Phú ở trên nhà
nghe thấy, ông gọi Nhỡ
lên, phang cho mấy gậy
gần què chân rồi đuổi
thẳng, bà Phú xin mải cũng
không được. ông bảo:
- Nuôi thứ ấy trong nhà
thì thế nào cũng có ngày
nó làm nội ứng dắt cướp
vào. Đuổi nó đi, cẩn tắc
vô ấy náy
Bà Phú dúi cho ít tiền và
bảo Nhỡ mang về nhà cho
mẹ già và dặn hễ khi nào
túng quẩn quá, không biết
trông vào đâu, thì tìm cách
gặp riêng bà, bà sẽ giúp
đỡ. Những việc nhân đức
bà làm ngoài sự thúc đẩy
tự nhiên do bản tính trời
sinh, bà còn muốn thực
hiện để phần nào trả nợ
cho chồng, trả cái nợ do
những hành vi bất chính
và nhẩn tâm của ông Phú.
Bà không phải là người
sùng đạo của bất cứ tôn
giáo nào, nhưng bà tin một
cách đơn giản rằng: làm
lành thì hưởng phước, gieo
gió thì ắt có ngày gặt bảo.
Trước đó ông Phú có mối
thù với ông Kháng Lạc chỉ
vì tranh nhau mua lại mấy
sào ruộng chiêm ở đầu
làng. Việc chưa ngã ngủ,
ông Phú cho người nhà
nữa đêm lẻn đến nhà ông
Lạc, ra lũy tre bên hông,
dấu mấy chai rượu lậu và
đồ nghề gần bờ ao rồi
báo Tây đoan về bắt. Quả
nhiên cái tết năm ấy, ông
Lạc đi tù với đầy đủ tang
vật: Cái nồi đồng ba mươi
lưng lửng bá rượu, thúng
gạo nếp đã vo sẳn, cái trỏ
và hai cái bong bóng trâu.
Toàn những thứ chỉ dùng
cho việc nấu rượu.
Bà Phú biết việc này,
nhưng không dám lên tiếng
trách chồng, chỉ thở dài vì
thấy chồng làm những
điều thất đức quá. Bà lo
cho đàn con mai sau phải
gánh chịu hậu quả bởi bà
vốn tin vào luật vay trả,
vào thuyết quả báo. Con
cái nhờ đức của cha, bà
thường nghe nói thế, nên
bà rất sợ cho hai cô con
gái của mình.
Bốn đứa con của bà, Long
đã có vợ hai con cũng ở
ngay trong làng. Kim mới
lấy chồng chưa có con, ở
khác làng nhưng cùng
tổng, cách một cánh đồng
ngô. Còn con gái thứ ba là
Nhàn và cậu út Hoành
đang ở chung với bố mẹ.
Gia đình như thế thì kể
củng là ít người bởi căn
nhà cổ kính truyền đã ba
đời của ông Phú thuộc loại
đồ sộ, tường xây mái
ngói, cột gỗ lim, trông oai
phong và vĩ đại lắm. Một
cơ ngơi rộng rãi như vậy
mà chỉ có hai vợ chồng,
hai đứa con, thêm chị
người làm và con mèo là
hết.
Chị người làm ở với ông
bà Phú đã 20 năm còn con
mèo đen thì ông Phú nuôi
từ khi mới đẻ đến nay đã
lớn lắm, người ta cứ gọi nó
là con cò con. Con mèo gắn
bó với ông Phú, đi đâu nó
cũng theo đấy, thậm chí
ban đêm nó cũng chui vào
buồng ngủ với ông. Ít khi
thèm đi rình bắt chuột.
Làng Vạn Yên phần đông
là người nghèo, mái tranh
vách đất san sát bên nhau
càng làm nổi bật căn nhà
đồ sộ của ông Phú truyền
từ đời ông nội để lại. Nhà
dựng trên nền cao, mái
ngói rêu phong cổ kính,
với những cây cột gỗ lim
đỏ thẳm, càng làm tăng
thêm vẻ nghiêm trang và
tăng thêm cái uy thế cho
gia chủ mỗi khi người làng
khúm núm đến vay nợ.
Nghề cho vay lãi cắt cỗ
giúp cho ông Phú đã giàu
thêm, bà Phú thường vẩn
giấu chồng giảm tiền lời
hoặc rộng lượng xí xóa
mỗi khi con nợ gặp phải
túng bấn,không trả nổi.
Riêng ông thì một xu cũng
không bỏ qua. Trong cái
cơ ngơi khoảng khoắc ấy,
gia đình ông Đào Ngọc Phú
rất thanh thản, chẳng
những vì của cải dư thừa
mà vì các con đều ngoan
ngoãn. Riêng bà Phú lại
càng cảm thấy hạnh phúc
vì Long đã cho bà hai đứa
nội kháu khỉnh. Còn Kim
tuy chưa có con, nhưng
lấy dược chồng hiền, và
cho đến nay thì gia đình
chồng cũng tỏ ra quý dâu,
chứ không hành hạ như
nhiều gia đình khác ở làng
Vạn Yên.
Bà tin rằng đó là do cái
phúc mà đã tạo được quua
những việc từ thiện.
Nhưng chồng bà thì khác,
mỗi khi nghe vợ khen bên
thông gia đối xử tử tế với
con gái ông, ông đều vênh
mặt hiu hiu tự đắc nói:
- Họ sợ cái uy của tôi chứ
tử tế cái gì? Bố bảo tụi nó
cũng chẳng dám động đến
cái Kim nhà này.
Bà Phú nén tiếng thở dài,
cố đè nén nổi bực mình để
khỏi cãi lại.
Cuộc sống đang bình
thường như dòng nước êm
trôi. Chỉ một buổi sáng tinh
mơ, cả nhà chưa ai thức
giấc, gà trong thôn chưa
gáy tiếng thứ nhất. Bổng
con mèo đen đang nằm thiu
thiu trên cái ghế bên cạnh
giường ông bà Phú, chồm
lên lao vọt qua cửa sổ và
kêu thét liên hồi, và cùng
với tiếng thét ngân dài ấy,
con mèo chạy vùn vụt trên
mái ngói, vụt phóng xuống
trước sân, gầm gừ rên rỉ
như giận dữ. Mèo cắn nhau
kêu lên là chuyện thường,
nhưng bổng ông bà Phú
nghe gõ cửa. Bà Phú giật
mình ngồi nhổm dậy, quay
đầu ngó qua khe cửa sổ,
thấy trời còn tối lắm.
Tưởng chồng chưa thức,
bà rón rén bước xuống,
không muốn làm mất giấc
ngủ của chồng, bà vừa
vấn tóc, vừa cằn nhằn
nho nhỏ:
- Đứa nào mà gỏ cửa sớm
thế này?
Nhưng ông Phú cũng đã
dậy ngay từ lúc con mèo
lao ra cửa sổ, ông định
nhân tiện đi tiểu, nên bảo
vợ:
- Bà cứ nằm đây, để tôi
xem đứa nào mà dám đánh
thức tôi với bà vào giờ
này?
Trong thâm tâm, cả hai ông
bà yên chí là chị Thuần,
người giúp việc lâu năm
của gia đình này hằng đêm
ngủ dưới bếp, sáng nay
bẩm báo việc gì gấp hoặc
một trong hai đứa cởno
buồng bên kia có chuyện
phải gặp bố mẹ. ông xỏ
guốc, đứng dậy tiến ra
tháo then cửa. Trời mờ tối,
lại dày đặc sương mù, ông
mở to cặp mắt, chưa kịp
lên tiếng thì giật mình ngạc
nhiên thấy một đứa bé gái
khoảng ba tuổi đứng dưới
sân trong vùng sương mờ
ảo, không trông rõ mặt.
Con bé chià tay xin:
- Ông... ông làm ơn cho con
nắm cơm... Con đói quá!
Đứa bé đứng ngay trước
mặt ông, cách có mấy
bước, nhưng giọng nói
nghe âm vang xa lạ quá,
như từ chốn thăm thẳm
nào vọng về ; ông bực
mình quát lớn theo thói
quen hống hách của mình:
- Con cái nhà ai đi ăn xin
nữa đêm thế này? Xéo
ngay! Làm mất giấc ngủ
của ông. ông lại vả cho
mấy cái bây giờ.
Mặc cho phản ứng dữ tợn
của ông, đứa bé vẫn đứng
im ngước lên nhìn ông như
thoát tục, mặt nó trắng
toát, đôi mắt trừng trừng,
nhìn ông đăm đăm. Khiến
chỉ vài giây sau, ông đã
mất hẳn bình tỉnh, và như
có luồng gió lạnh buốt bất
chợt thổi ập vào người,
làm ông lẩy bẩy run sợ.
Đứa bé lập lại bằng giọng
sâu thẳm hơn:
- Con..Con đói quá, xin ông
làm phúc cho con bát cơm.
ông Phú đứng á khẩu tại
chỗ, mồm há ra, mắt tự
nhiên lạc thần. Vừa lúc ấy
có giọng nói đàn bà từ
cổng đưa vào:
- Con ơi! về con ơi! Về
với mẹ con ơi!
ông Phú kinh hãi nhìn ra
cửa, thấy một người phụ
nữ mặc đồ trắng toát,
đứng tuốt ở cuối sân, sát
cái cổng xây nhà ông giơ
tay vẫy vẫy. Khoảng cách
khá xa, lại gặp màn sương
đục, ông không trông rõ
mặt, chỉ thấy mái tóc dài
đen nhánh phủ xuống vai
nổi bật trên nền áo trắng.
Ông còn đang ngơ ngác,
mất thần thì con mèo đen
từ lưng sau lao vụt xuống
bên ông kêu thét lên, đôi
mắt nó lông lên sòng sọc
và nhe hàm răng nhọn
hoắt ra gầm gừ, muốn lao
lại vồ đứa bé. Hai chân với
những móng sắt dài, nó
cào liên tiếp trên nền
gạch. ông Phú nghe rõ tim
mình đập thình thịch như
sắp phá vỡ lồng ngực.
Thoáng trong chớp mắt,
ông không còn thấy đứa
bé nữa. ông ngước nhìn ra
xa, thì hai cái bóng trắng
ấy đã ra tuốt ngoài cuối
sân,đang dắt tay nhau
bước ra khỏi cổng nhà
ông, và mất hút ở khóm
tre bên đường.
Cả lúc sau, ông mới định
thần, chập choạng bước lui
vào nhà, miệng ú ớ kêu:
- Bà, bà ơi! bà..bà... bà ra
ngay đây..bà ơi!
ông lùi hẳn vào bên trong,
đóng ập cánh cửa lại, bà
Phú từ trên giường bước
xuống ngạc nhiên hỏi:
- Ủa cái thuần nó cần cái
gì mà nó gọi sớm thế?
ông Phú run rẩy ngồi
xuống giường lắc đầu lia
lịa, một lúc sau ông mới
lấy lại chút bình tỉnh bảo:
- Không! không phải cái
Thuần.
- Ơ... không phải cái
Thuần thì đứa nào mà gõ
cửa sớm thế? Con Nhàn
hay thằng Hoành?
ông Phú nắm chặt bàn tay
vợ, còn bàn tay ông thì
lạnh toát như nước đá,
ông thở hổn hển bảo vợ:
- Bà... bà ra xem nó có còn
ở ngoài ấy không?
Bà Phú không hiểu gì chỉ
biết từ ngày về với ông
Phú, hiếm thấy khi nào
ông như thế này. Bà hỏi
lại:
- Đứa nào mới được chứ?
- Đứa bé con.
Bà Phú càng ngạc nhiên:
- Đứa bé con nào? Nhà
này làm gì có trẻ con?
- Không... biết con nhà ai
mà nó đi xin ăn.
- Khổ thân! Ăn xin mà vào
giờ này? Nhà này thiếu gì
cơm nguội. Sao ông không
cho nó một bát? thôi được,
để tôi xuống bếp, tôi bảo
cái Thuần nó lấy cho nó
vậy.
Dứt lời, bà bước nhanh ra
cửa, bởi vì bà vốn có lòng
từ tâm. ông Phú nói với
theo:
- Ừ... bà ra xem nó có còn
ngoài sân không?
Rồi ông ngồi trố mắt nhìn
theo, hồi hộp chờ đợi. Mở
cửa, con mèo đen lao vụt
vào, nhảy lên cái ghế
thường của nó. Đêm tối,
đôi mắt nó nhìn đăm đăm
như hai ngọn lửa loé sáng
có pha chút xíu màu đỏ. Bà
Phú bước hẳn ra thềm,
đứng nhìn quanh khắp sân
và hai bên hiên, nhưng
không thấy đứa bé nào cả.
Bà nhướng mắt, cố phóng
tầm nhìn ra phía cổng vì
sương sơm dày đặc quá.
Bà đứng trên thềm, quay
đầu nói vọng vào:
- Có cái đứa nào đâu? Già
trẻ lớn bé, chả có thấy ai
hết. ông chỉ trông gà hóa
cuốc, chứ có ăn mày nào
mà dám vào nhà mình giờ
này?
ông Phú lo lắng nói vọng
ra:
- Không có ai thì bà vào đi.
Bà vào rồi khép cửa lại.
Bà Phú làm theo lời chồng,
trở vào giường nằm.
Nhưng ông Phú bảo bà
thắp cho ông ngọn đèn
vặn lớn đặt trên cái bàn
giữa nhà rồi vào nằm bên
ông. Bà thấy rõ toàn thân
ông Phú vẫn còn run lên
bần bật từng cơn, ông kéo
tấm chăn mỏng phủ lên tới
cổ và mắt mở trừng trừng
ngó lên trần. Bà Phú lấy
làm lạ là tự dưng ông Phú
chống bà lại đòi thắp đèn,
bình thường khi đi ngủ,
ông không chịu được ánh
sáng dù chỉ một ngọn đèn
leo lét dựng trên bàn thờ,
ông cũng bắt che lại, đừng
để lọt vào mắt ông. Có đèn
ông không ngủ được, ông
thường lập đi lập lại như
thế!
Bà Phú xoay về phía ông,
đưa một tay đặt lên trên
trán, và lần xuống cánh
tay, và bàn tay ông, thấy
chỗ nào cũng lạnh toát, bà
lo lắng hỏi:
- Sao mà lạnh hết lên thế
này? Trời muà hè mà sao
lạnh rét lên thế này?
Bà nghe thấy rõ hai hàm
răng ông đập vào nhau
lách cách như đi ngoài tời
muà đông, gặp gió bấc thổi
mạnh, bà đăm chiêu hỏi:
- Ông ơi, ông thấy trong
người như thế nào? hay là
lúc nãy ông mở cửa ra thì
gặp luồng gió độc? Thôi cứ
nằm yên đấy đi, tôi lấy lá
dầu không tôi hơ lửa, tôi
đánh gió cho ông nhé!
ông Phú lắc đầu, cố nói
bằng giọng điềm tỉnh hơn:
- Có gì đâu! Nhưng mà bà
nhớ là cả bà và tôi cùng
nghe thấy tiếng gõ cửa, có
phải không nào?
- Đúng rồi, tôi còn nghe
thấy trước ông nữa kia
mà. Tiếng con mèo nhà
mình nó kêu trước rồi
tiếng đập cửa sau.
ông Phú chậm rãi kể:
- Ừ! Bà làm chứng đấy
nhé, rõ ràng là có tiếng gõ
cửa. Tôi ra mở cửa thì
thấy có đứa bé con đứng
ở dưới sân chià tay xin
cơm, da nó trắng xanh
như con nhà giàu mà lại đi
ăn xin vào giờ này, thế có
lạ không? Tôi đuổi nó đi,
thì nó cứ đứng im nhìn tôi,
rồi tôi bổng nhiên lạnh
buốt. Tháng này làm gì có
gió lạnh?
ông đang nói dỡ câu thì
bổng con mèo lại tru lên
và lao xuống đất. Lần này
nó không phóng qua cửa
sổ phía sau mà chồm lên,
cào mạnh trên cánh cửa ra
vào, nhe răng gầm gừ liên
tục. ông Phú đang nói,
quay mặt lại, nắm chặt
cánh tay vợ, trố mắt nhìn
theo con mèo. Vài giây sau
quả nhiên có tiếng gõ cửa,
ông Phú toan hét lên vì
kinh sợ, nhưng ông nằm
bất động, níu cánh tay vợ
thật chặt. Tiếng gõ càng
thôi thúc khiến con mèo
chồm lên gào cánh cửa,
tiếng gầm gừ càng thảm
thiết hơn, ông run lập cập
bảo bà:
- Nó... nó... nó đấy bà, nó
chưa đi đâu.
Bà Phú gỡ tay chồng ra và
bảo:
- Ra cho nó bát cơm để nó
đi. Rõ lẩn thẩn! Đêm hôm
khuya khoắt thế này nó
vào đây xin bát cơm, chả
lẻ đuổi nó đi à? Thôi được
rồi, ông cứ nằm im đó đi.
Tôi xuống bếp lấy cơm
cho nó.
Bà tuột nhanh xuống
giường, xỏ guốc đi ra. öng
Phú ngồi bật lên, trố mắt
nhìn theo chờ đợi. Bà Phú
vừa tháo then ngang, vừa
nói lớn:
- Đứa nào đập cửa đấy?
Từ từ rồi tao mở, làm cái
gỉ mà inh ỏi lên thế?
Rồi bà mở rộng cánh cửa
gỗ, con mèo liền đi ra,
nhưng chỉ vài giây sau
bước vào, nhẹ nhàng nằm
khoang thai bên ông Phú.
Bà Phú bước ra thềm, ngạc
nhiên chẳng thấy ai. Bà
đứng trên hiên, nhìn ra
phía cổng, cũng chẳng
thấy bóng người nào. Bà
bực mình hỏi lớn:
- Đứa nào đập cửa nhà bà
đấy?
Không có ai đáp lại, bà
buột miệng nói:
- Lạ nhỉ? Rõ ràng là vừa
đập cửa cơ mà, biến đi đâu
mà nhanh thật đấy? Này
này, con cái nhà ai mà
nghịch như quỷ thế hả? Bà
mà túm được là mày chết
với bà đấy!
Bà đứng thêm một lúc rồi
vén mùng quay vào nằm
bên chồng, ông Phú hồi
hộp hỏi:
- Bà có thấy đứa bé
không?
- Có thấy gì đâu?
- Ơ! Mà rõ ràng cả hai lần
nó gõ cửa bà đều nghe
thấy chứ đâu phải là tôi
ngủ mê! Lần trước tôi ra,
thì nó đứng ngay trước
mặt tôi, bận này bà ra thì
lại không thấy, thế này là
thế nào?
Cả hai cùng im lặng vì cả
hai không tìm ra được câu
trả lời, một hồi ông Phú hạ
giọng nói như tự hỏi:
- Chả biết là người hay là
ma?
Bà Phú đáp ngay:
- Ma với quỷ cái gì? Chắc
đứa nào nó trêu mình!
Tuy bà nói thế nhưng lòng
bà bắt đầu thắc mắc, vì bà
biết làm gì có đứa nào dám
trêu chọc bà ở giữa khuya
khoắt như thế này? Ban
ngày còn chả dám huống
chi là ban đêm. Đắn đo một
chút bà hỏi:
- Mà này ông! Thế ông
thấy đứa bé thật à? ông
có chắc không đấy?
ông Phú gắt nhẹ:
- Bà ơi, tôi ngần này tuổi.
Cả đời có biết ma là cái gì
đâu. Nhưng mà hôm nay...
hôm nay thì tôi thấy lạ
lắm....
Bà Phú ngắt lời:
- Tôi thì..tôi chỉ sợ ông
ngáy ngủ, mắt nom không
rõ thôi. Chứ ông nghĩ mà
xem ăn xin gì... chả ai ăn
xin vào lúc nữa đêm như
thế này! huống hồ trẻ con
thì giờ này ngủ say như
chết ấy, lay không dậy nổi
chớ đừng nói là giờ này
lang thang ngoài đường!
ông Phú càng kinh sợ qua
những lời vợ ông vừa nói
thì rõ ràng là ma chứ
không phải là người. Bà
Phú bổng nhổm dậy, bước
nhanh xuống giường, ông
Phú hốt hoảng hỏi:
- Bà đi đâu đấy?
Bà Phú vừa xỏ guốc vừa
đáp:
- Tôi đi gọi cái Thuần
Bà mạnh dạn bước ra tháo
then cửa, khe khẻ hé mở,
tiếng bản lề để lâu ngày
rỉ sét, kêu lên kèn kẹt. bà
mở to mắt nhìn xa xa, dĩ
nhiên không thấy ai,
sương vẫn dày đặc trong
không gian mờ tối. Bà
bước hẳn ra, đứng lại một
lúc trên thềm không thấy
động tỉnh gì, bà mới đi
nhanh xuống bếp và gọi:
- Thuần ơi!
Chị người làm nằm trên cái
giường kê sát cửa bếp,
ngồi dậy vấn tóc và đáp:
- Ớ! Bà gọi con ạ? Có việc
gì sớm thế ạ?
Bà Phú ngồi xuống bên
cạnh và hỏi:
- Này, tối ngày hôm qua
mày quên đóng cửa phải
không?
Chị Thuần quả quyết:
- Ấy chết! Sao bà nói thế
ạ? Con đóng cổng, cài then
cẩn thận lắm, quên làm sao
được ạ? Có cô Nhàn làm
chứng, lúc đó cô con vừa
tắm ở dưới ao lên, đi ra
cổng cùng với con. Bà
không tin thì hỏi cô con là
biết ngay ấy.
Bà Phú ngồi thừ người im
lặng, chị người làm sốt
ruột hỏi thêm:
- Có cái gì thế bà? Có việc
gì thế bà? Trộm vào nhà
mình hở bà? hay là có
chuyện gì không? Bà làm
con lo quá bà ạ!
Bà Phú không muốn để chị
người làm kinh hãi, sợ chị
sẽ kể với hai đứa con, cho
nên bà đứng dậy và bảo:
- Không, tao chỉ hỏi thế
thôi!
Rồi bà bước ra sân, vừa
đi vừa nhìn xung quanh
một lần nữa.
ông Phú vẫn nằm nhắm
mắt trên giường, nghe
tiếng chân vợ vội lên
tiếng:
- Bà kể với cái Thuần ấy
à?
- Không, tôi chỉ hỏi nó là
tối hôm qua nó có đóng
cổng hay không thôi.
- Rồi nó bảo sao?
- Nó quả quyết là nó có
đóng, có cả cái Nhàn ra
cùng đóng cổng với nó.
Dứt lời, bà mén vùng chui
vào, ngả người nằm
xuống và nói bâng quơ:
- Lạ thật đấy, tôi thì tôi
vẫn cứ cho là ông quáng
gà chứ làm gì có đứa bé
con nào?
ông Phú đã bình tĩnh trở
lại, ông gắt nhẹ:
- Ừ thì cứ cho là tôi nhìn
lầm đi. Nhưng cả hai lần nó
gõ cửa, bà đều nghe thấy,
chứ nào phải riêng tôi? hỏi
bà ai gõ mới được chứ?
Đây nhé, vừa nghe tiếng
gõ cửa bà chạy ra ngay
lập tức, mà không thấy ai,
tôi hỏi bà cái sân nhà mình
nó trống hốc ấy. Giả như
có đứa nào nó cố ý trêu
tôi với bà, thì nó núp vào
đâu?Nó vừa gõ cửa, bà ra
ngay cơ mà! Người mà
chạy nhanh đến thế hay
sao? Bà thử nghĩ xem!
Nghe những lời phân tích
ấy, bà cho là chồng hoàn
toàn có lý, buộc miệng nói
theo:
- Ờ, sân nhà mình thì làm
gì có chỗ núp ông nhỉ?
ông Phú càng tin là mình đã
gặp ma, rồi từ đó hai
người im lặng nằm bên
nhau, mỗi người theo đuổi
một ý nghĩ. Mãi cho đến
khi gà trong xóm rộn rã
gáy khắp lượt, tiếng bước
chân, tiếng nói chuyện
huyên náo của dân làng
kéo nhau ra đồng trên con
đường đất rộng chạy
ngang trước nhà. ông Phú
mới mệt mỏi ngồi dậy ra
thềm đứng nhìn khoảng
sân gạch đang sáng dần
trong ánh bình minh.
Mặt trời lên, làm ông thấy
tỉnh táo hẳn, không còn
sợ hãi như trong đêm. ông
bước xuống sân thong thả
đi ra cổng, và quả nhiên
thấy cánh cổng vẩn còn
khép kín, cài then trong
với chiếc khóa đồng to
bản vẩn nằm im ở vị trí
thường lệ. Nhà ông từ mấy
đời vì của cải khá nhiều
nên xây tường bao quanh,
và đêm đêm bao giờ cũng
đóng then để đề phòng
trộm cắp. Cổng khóa có
nghĩa là người lớn không
hề vào được, huống hồ là
đứa con nít ba bốn tuổi.
ông thơ thẩn quay vào, đi
quanh một vòng.
Mặt trời lấp ló sau rặng
tre, chiếu những tia nắng
ban mai rực rỡ, in bóng
ông chạy dài in trên nền
gạch. ông bước lên hiên,
uể oải ngồi xuống bậc
thềm ngay chỗ sáng nay
ông đúng nói chuyện với
đứa bé lạ mặt. Con mèo
đen lấm lét bước theo, rồi
leo lên nằm trên đùi ông.
Bà Phú từ dưới bếp đi lên
bưng khay trà toan bước
vào nhà để đặt lên bàn
cho chồng như thường lệ.
Nhưng ông Phú vẫy bà,
chỉ tay xuống sân và nói:
- Chỗ này nè bà! Nó đứng
ngay chỗ này này.
Bà Phú đặt khay trà trên
hè và cũng ngồi xuống
bên cây cột gỗ lim. Bà lật
hai cái cốc thủy tinh rồi rót
nước trà, hơi nóng bốc lên
nhè nhẹ. ông Phú có thói
quen sáng thức dậy là phải
uống ngay một cốc nước
trà thật nóng và thật đặc
trước khi ra hông nhà bếp
xúc miệng rửa mặt. Nhìn
nét ưu tư trong ánh mắt
chồng, bà Phú tự hỏi:
- Hay là thật sự có đứa bé
hàng xóm nữa đêm lẻn
vào chọc ghẹo, cốt để làm
cho vợ chồng bà sợ? Trẻ
con làng này thì có thiếu gì
đứa quấy phá thiên hạ.
Nghĩ thế, bà hỏi:
- Này, nó... nó... con cái
nhà ai? ông thấy mặt mũi
nó ra làm sao? ông có nhớ
nó không?
- Nào tôi có biết. Bây giờ
nghĩ lại tôi thấy chắc một
điều là nó không phải là
đứa bé ăn xin. Con nhà ăn
mày làm gì có quần áo
trắng tinh như thế! Với lại
bà nói đúng, bố mẹ nào mà
xui con đi ăn xin mà lại
đập cửa nhà người ta giữa
nữa đêm như thế. Người
ta đánh cho què chân chứ
lị!
Tất cả những nhận xét
của ông Phú, thật ra bà
Phú đã nghĩ đến từ nãy
đến giờ, nhưng không
muốn nói ra sợ làm chồng
càng thêm sợ, bà chỉ khẻ
gật đầu tỏ vẻ đồng ý, ông
Phú lại thêm:
- Bà ạ, tôi vừa ra coi lại
ngoài cổng, thì cổng vẩn
còn khóa
Bà Phú bưng cốc nước
nóng xoay xoay trên tay
quay sang nhìn chồng. Một
người bản tính hung hăng
như chồng bà mà từ lúc
nhìn thấy đứa bé lạ mặt
trong đêm khuya, bổng
dưng biến thành con người
khác với những sợ sệt
không che dấu nổi, thì
chắc hẳn đứa bé ấy có cái
ma lực gì ghê gớm lắm. Có
thể nó là một oan hồn từ
khu nghĩa trang ngay sau
vườn nhà bà hiện về
chăng? Nhưng bà lại lắc
đầu gạt đi vì bà nhớ lại 20
người chôn sau nhà bà
không ai chết trẻ. Đó là
điều làm cho bà vẫn còn
ngờ ngợ, nữa tin nữa
không tin. Bà phân vân hỏi
chồng:
- Ý ông thì....thì ông nhất
định cho rằng đứa bé ấy
nó... nó... không phải là
người à?
- Ma chứ không phải là
người. Bà nhớ lại mà xem,
có bao giờ con mèo nhà
mình nó lồng lộn như đêm
hôm qua đâu? Hễ nó gào
lên, là lập tức có tiếng gõ
cửa. Giống mèo nó nhận
được ma ấy bà ạ! Bà
không nghe người ta kể là
quỷ nhập tràng hay sao?
- Có, có nghe! Nhưng mà
quỷ nhập tràng nghĩa là
quan tài người chết vẫn
quàng trong nhà chưa đem
chôn, nếu như mà có con
mèo đen nó nhảy qua thì
quan tài sẽ đứng bật dậy,
rồi nắp quan tài bung ra,
rồi người chết đuổi theo
con mèo. Tôi thì tôi nghe
người ta kể như thế.
Bất giác, ông Phú cuối
xuống nhìn con mèo đen
của mình đang nằm bên
cạnh đùi ông. Và tự dưng
ông thấy rờn rợn vì biết
đâu nó chẳng biến thành
tinh khi gặp quan tài người
chết. Bà Phú uống ngụm
nước, đặt lên, rồi trầm
ngâm tiếp:
-..Tôi, thì tôi về ở với ông
hơn hai mươi mấy năm rồi
trong cái căn nhà này,
chưa hề nghe nói nhà mình
có mà bao giờ. Nhưng mà
hôm nay nếu ông tin là có
ma, thì để tôi bảo cái
Thuần nó chạy đi mời
Thầy, Thầy Lĩnh Quang ở
bên Xuân Diễn ấy. Ngoài
chợ người ta cứ đồn là
Thầy Lĩnh Quang cao tay
lắm. Thầy sai được cả âm
binh và có phép mỡ mả chị
thằng Trùng ấy. Để tôi
thỉnh Thầy về cúng kiến
xem sao, đuổi hồn ma đi
khỏi quấy rầy nhà mình
ông nhé.
ông Phú giơ tay ngăn lại:
- Hẳng khoan bà, tôi
không muốn cái chuyện
này ầm ỉ lên. Từ từ xem
thế nào đã. Cần thì cũng
phải mời nhưng thư vài
hôm nữa xem sao.
Bà Phú đồng ý ngay:
- Thì tôi sợ ông lo quá rồi
thành bệnh nên tôi mới đề
nghị ông như thế, chứ thật
ra tôi đâu muốn chuyện
này nó lan ra ngoài cho
thiên hạ biết đâu. Miệng
đời nó ác dộc lắm! Người ta
lại bảo là nhà mình thất
đức bị trả quả báo.
Hai chữ thất đức, bà Phú
nhấn mạnh để ám chỉ
chính ông chồng những
năm tháng đã qua. ông Phú
dường như cũng biết ý vợ
nên chớp mắt nâng ly trà
hớp một ngụm lớn rồi
không nói gì. Bà Phú liếc
mắt nhìn chồng, thấy ông
đã tỉnh hẳn chứ không
lạnh người như trong đêm.
Tuy vậy ánh mắt ông vẫn
nặng trĩu ưu tư và da mặt
sáng nay chợt xanh xao
như người sốt rét lâu năm.
Để trấn an ông, bà quay
về với luận ngữ cũ hy
vọng giúp chồng quên hẳn
nổi sợ hãi vừa xảy ra, bà
bảo:
- Trời ơi, đêm qua ông làm
tôi sợ quá, tôi tưởng ông
lên cơn sốt rét.
ông Phú gật đầu rồi nói:
- Bà nhớ đấy nhé, bà
đừng dể hở cái câu chuyện
nhà mình cho người ngoài
nghe đấy nhé! Con Thuần,
cái Nhàn, thằng Hoành, bà
không được nói với chúng
nó.
Bà Phú đồng ý ngay, bà
nhắc lại:
- Với lại đã chắc gì là ma?
ông bảo sáng nay ông nom
thấy đứa bé đứng ở đây
xin cơm, nhưng mà khi tôi
mở cửa ra, tôi chả thấy
đứa bé nào cả. Tôi thì tôi
chỉ sợ lúc ấy ông ngái
ngủ, mắt nhắm mắt ngủ,
trời lại lắm sương mù cho
nên ông nom cái nọ nó xọ
ra cái kia chăng?
Ông Phú cũng mong như
thế, mong rằng hình ảnh
đứa bé sáng nay ông thấy
đứa bé trước cửa nhà ông
cũng như người đàn bà
đứng ngoài cổng, đều chỉ
là ảo giác. Nhưng rõ ràng
không phải, ông nom thấy
thật, ông ônở nụ cười héo
hắt bảo vợ:
- Tôi là chúa ghét chuyện
nhảm nhí, ghét những
chuyện mê tín dị đoan, bà
thì còn hay tin vớ vẩn chứ
bà có thấy tôi tin ma quỉ
bao giờ? Ấy thế mà bây
giờ chính tôi lại gặp.
ông vừa dứt lời thì từ dưới
bếp, chị người làm và hai
đứa con cùng kéo lên, cái
Nhàn hơn 20 tuổi, con gái
cưng của bà Phú. Thằng
Hoành 16 tuổi, học chữ
Quốc ngữ hết lớp ba bậc
Tiểu học thì trường làng
không còn lớp cho nó tiếp
tục nên đành quanh quẩn
ở nhà. Nhàn ngồi xuống
bên cạnh mẹ và hỏi một
cách lo lắng:
- Nhà có việc gì thế hở
mẹ? Đêm qua có trộm hay
sao mà sáng nay con thấy
mẹ xuống bếp đánh thức
chị Thuần sớm thế?
ông Phú đưa mắt nhìn vợ
làm hiệu, bà Phú vội xua
tay phân trần:
- Trộm đâu mà trộm, mẹ
chỉ hỏi chị Thuần là có
quên khóa cổng hay không
thôi.
Cái Nhàn thắc mắc hỏi:
- Ơ... nhưng mà rõ ràng
con nghe tiếng bố nói
chuyện với ai ngoài hè cơ
mà? Lúc đó con giật mình
thức dậy, con tính con
chạy ra con thấy mẹ chạy
xuống bếp gọi chị Thuần.
Bà Phú cười đẩy con:
- Bố mày mê ngủ đấy chứ
có nói chuyện với ai đâu!
Chuyện vãn gì nữa đêm
vậy?
Thằng Hoành ngồi xuống
bên cạnh chị, chăm chú
theo dõi nhưng không nói
lời nào, chị người làm lên
tiếng đổi đề tài:
- Hôm nay bà với cô Nhàn
có đi chợ không ạ? Để con
mang quang gánh ra cho
bà.
Bà Phú quay sang hỏi con
gái:
- Đi hay ở nhà con?
Nhàn ngạc nhiên nhìn mẹ
và đáp:
- Đi chứ mẹ! Chợ phiên mà!
Mẹ bảo là mẹ mua vải may
cho con và thằng Hoành
mỗi đứa hai cái áo cánh
mà!
Bà Phú thở dài:
- Ờ... ừ... thì đi, nếu đi thì
phải đi cho sơm con ạ. Hôm
nay sương nhiều, chốc
nữa nắng to phải biết.
Rồi bà quay sang chồng:
- Thế ông có cần mua cái
gì không?
ông Phú uể oải đáp:
- Bà xem trong tủ có còn
chè mạn sen không? Hết
thì mua cho tôi mấy gói.
Bà Phú đứng dậy bước
vào nhà và nói:
- Ừ, để tôi xem coi
Rồi bà giục con gái chuẩn
bị lên đường, bà bảo chị
người làm:
- Lấy cái thúng được rồi.
Có mua gì nhiều đâu mà
cần quang với gánh.
Chị Thuần và Nhàn xuống
bếp, thằng Hoành ra vườn
sau xem tổ chim trên cây
bưởi, chỉ còn mình ông Phú
ưu tư ngồi trên
thềm nhìn ra cổng, không
nói lời nào. Nổi lo sợ trong
đêm gần như tan biến hết
dưới ánh sáng mặt trời.
ông ngẩm nghĩ mãi về
cuộc đời, ông không hiểu
tại sao ông lại gặp ma, hay
đúng hơn là tại sao ma lại
đến với ông?
Những câu chuyện về thế
giới bên kia, về oan hồn
vươn vấn dương gian. Ai
mà chả từng nghe kể, mà
chỉ toàn là tưởng tượng,
là hoang đường, chứ có ai
tận mắt gặp phải hồn ma
bao giờ? Cả đời ông vẫn
tin như thế cho đến đêm
qua thì suy nghĩ của ông
rẻ hẳn sang một khúc
quanh khác. Chuyện tiếp
xúc với cõi âm là có thật,
chứ chẳng phải là ảo giác
thêm mắm thêm muối cho
hấp dẫn người đời. ông
mong rằng câu chuyện sẽ
kết thúc ở đây, đừng tái
diễn thêm một lần nào
nữa. ông thở mạnh, vói
tay lấy cái điếu cày, rồi
tình cờ ngước lên ngọn cây
soan mọc ở đầu nhà, trên
một nhánh khác có con quạ
đen đậu từ lúc nào, mắt
đăm đăm nhìn ông. ông
vung tay đuổi, con quạ
vẫn lì lợm đứng tại chỗ,
ông tìm cục đá nhỏ quăng
lên, con quạ vỗ cánh đảo
một vòng rồi trở về chổ
cũ và vẫn nhìn ông soi
mói, khiến ông hoang
mang, đứng dậy bỏ vào
nhà.
Một ngày trôi qua rất
nhanh, buổi trưa ông thơ
thẩn đi bách bộ trên thềm
nhà dưới mái hiên dịu mát.
Bà Phú và Nhàn đi chợ
chưa về, con mèo đen
đang lửng thửng bước
theo ông trên trên hè
bổng dưng thét lên rồi
chạy vụt ra cái cổng
chính, rồi cứ thế nó nhảy
chồm lên cào vào cánh
cổng như đang quần thảo
với một kẻ thù vô hình nào
đó rất hung dữ. ông Phú
đứng trên nhà, toàn thân
nổi da gà, trố mắt nhìn ra
dù không thấy gì ngoài con
mèo một mình gầm thét và
cào cấu.
Một lúc sau, con mèo
ngừng kêu, đứng lặng im
trước bụi tre một lúc rồi
quay vào với ông. ông thở
hổn hển, ngồi xuống bậc
thềm xoa lưng nó bởi biết
rằng hồn ma vừa hiện vào
cổng trước nhà ông,
nhưng có lẽ vào ban ngày,
ông không thấy được. Tuy
nhiên, nhìn vào cảnh
tượng ấy, ông cũng thấy
rõ là người xưa nói không
sai: chung quanh người
sống, có biết bao nhiêu
hồn người chết đang lởn
vởn bên cạnh, mà mắt trần
gian không trông thấy
được.
Biết đâu trong lúc này, ông
đang ngồi đây thì hai cái
bóng ma xa hai mẹ con xa
lạ đó cũng đang ngồi sát
bên ông mà ông không
biết. ông hoang mang nghĩ
ngợi mãi cho đến lúc vợ
ông và cô con gái đi chợ
về, ông mới gượng cười
đứng dậy, và cũng không
kể cho ai nghe câu chuyện
con mèo vừa đánh nhau
với ma ở ngoài cổng.
Hiện tượng quái dị ấy tuy
có làm ông sợ, nhưng dù
sao đi nữa nó cũng diễn
ra vào ban ngày, ông
không hãi hùng lắm. ông
chỉ lo đêm nay, đứa bé con
mặc đồ trắng sẽ lại gõ cửa
tìm ông. Cho nên buổi
chiều, ông lặng lẽ ra
nghĩa trang sau nhà thắp
nhang từng ngôi mộ. Thành
khẩn cầu xin tổ tiên phù
hộ cho ông qua cơn khủng
hoảng. Có nghĩa là đừng
để hồn ma đứa bé tìm ông
một lần nữa.
Lần đầu tiên trong nghĩa
trang của chính gia đình
ông, mà ông cảm thấy cái
không khí rờn rợn, vương
đầy tử khí. ông vừa nhắm
mắt để khấn nguyện thì
chợt linh cảm từ phía sau
có người nào đó đang nhìn
ông, ông quay đầu lại thì
chẳng thấy ai. ông nhắm
mắt đọc kinh tiếp thì lại
thấy rõ có ai đứng nhìn lén
mình, ông quay lại nữa, thì
chợt nhận ra con quạ đen
đậu trên cành đa chỉ cách
ông có mấy thước, ông
giựt mình, nhặt cục đá ném
lên, con quạ kêu lên mấy
tiếng ai oán rồi bay về
chờ ông trên nhánh cây
soan bên hông nhà. Buổi
tối ông ăn qua loa mấy
chén cơm rồi vào buồng vì
ông sợ bóng tối ngoài sân
cũng như trong các lùm
cây. Lên giường nằm, ông
trằn trọc thao thức mãi. Bà
Phú thắp nhang trên bàn
thờ rồi chìu chồng cũng
lên giường sớm và con
mèo đen theo thói quen,
nhảy lên cái ghế dành cho
nó bên cạnh giường.
Bà Phú kể cho chồng nghe
các thứ chuyện vặt vãnh
ngoài chợ, tránh nhắc đến
chuyện đêm qua, để khỏi
làm chồng thêm sợ. ông
Phú nghe vợ nói chuyện,
cũng ậm ừ cho qua, nhưng
rõ ràng ông không chú ý
vì đầu óc vẫn đang
vướng bận, cố gạt đi mà
không gạt nổi. Gần nữa
đêm bà Phú mệt mỏi ngủ
mất trong khi ông vẫn còn
trăng trở, hết xoay bên
phải lại đổi sang bên trái.
Nằm lâu ông buồn tiểu lắm,
nhưng không dám đi một
mình, mà chẳng lẽ lại đánh
thức vợ dậy để rũ vợ
cùng đi chung với mình.
Nhà cầu nằm mãi sau bếp,
ông tưởng tượng giờ này
ông phải băng ngang mảnh
sân ra đó, bất chợt đang
đi mà hai cái bóng trắng
lao ra chắn lối, thì chắc
chắn có thể làm ông kinh
sợ đến ngất đi được.
ông nén tiếng thở dài,
nhắm mắt lại cố dỗ giấc
ngủ. Bên ngoài trời đã
khuya lắm, ông gnhe tiếng
sương đêm từng giọt đều
đặn từ mái ngói đến sân
gạch, ông kéo tấm chăn
phủ kín trên mặt rồi cảm
thấy rất khó chịu vì ngộp
thở. Không gian hoàn toàn
tỉnh mịch, trời đứng gió,
ngoài vườn bao nhiêu cây
lá không một chút lay động.
ông hồi tưởng lại bao
nhiêu năm sống ở làng
này, từ thuở thiếu thời,
ông đã lang thang một mình
trên đường khuya, dù là
đêm trăng sáng hay đêm
tối trời, có bao giờ biết sợ
là gì? Rồi sau này khi lập
gia đình, có địa vị trong
làng xóm, cũng biết bao
đêm ông đi uống rượu ở
nhà người này, người kia.
Hoặc khi ra sân đình xem
hát chèo, rồi một mình trở
về trên những khúc
đường vắng lặng, chỉ có
tàn tre hai bên rũ xuống,
chuyện ma quỷ có khi nào
làm cản trở bước chân lịch
lãm của ông đâu? Ấy thế
mà từ đêm qua đến giờ, hễ
nhìn thấy bóng đêm là ông
run sợ. Vườn nhà ông cây
trái xum xuê, từ nay ông
chỉ dám ra chơi ban ngày
mà thôi. Ông nhớ có lần
nghe người ta bảo ma lúc
nào cũng hiện diện quanh
ta, nhưng chỉ người nào
ma muốn cho thấy, thì mới
thấy được. ông tự hỏi tại
sao ma lại chọn ông để hù
dọa?. ông nghĩ mãi không
tìm ra lý do. Một lúc sau,
ông Phú vừa lật người nằm
ngửa, thì bổng con mèo
bên cạnh ông kêu rú lên,
lao vọt qua cửa sổ, và
chạy vùn vụt trên mái nhà,
tiếng gào thét như xé màn
đêm. Sau đó có tiếng gỏ
cửa phía trước, ông Phú
giật thót người, hất mạnh
tấm chăn ra khỏi, ngóc
đầu dậy lắng nghe. Vẫn
những tiếng cọc cọc giống
hệt đêm qua.
ông hít thở chờ đợi, tiếng
gõ vang lên như giục giã,
ông đưa mắt nhìn vợ, hy
vọng là bà cũng nghe
thấy. Nhưng bà vẫn đang
say giấc nồng, hơi thở
vẫn đang đều đều, chứng
tỏ bà vẫn chưa thức giấc.
ông Phú khẻ lay vai vợ,
bà Phú trở người nằm
nghiêng, úp mặt vào
tường, xoay lưng về phía
ông. Tiếng gõ cữa vẫn
tiếp tục, tiếng mèo gào thê
lương vẫn vang lên rộn
rã, tiếng móng vuốt cào
cào rin rít trên cánh cửa
gỗ. ông Phú như người
say thuốc, như kẻ bị hớp
hồn, nữa tỉnh nữa mê,
mất hết tự chủ, tung chăn
bước xuống giường, thất
thểu đi ra, ông tháo then
ngang, đẩy rộng cánh cửa.
Con mèo đen lao vọt lại
chân ông, cắn gấu quần
ông, lôi thật mạnh, như cố
ý kéo ông vào nhà. Nhưng
ông cứ đứng yên như
người bị thôi miên...